TÌM HIỂU VỀ PHONG TỤC TANG MA CỦA NGƯỜI VIỆT, PHONG TỤC TANG MA CỦA NGƯỜI VIỆT XƯA VÀ NAY

-
Đám ma hay đám tang là một trong những phong tục lâu đời không thể thiếu của người Việt. Cùng tìm hiểu phong tục đám tang của người Việt qua bài viết này nhé. 

Đám ma hay đám tang là một trong những phong tục lâu đời không thể thiếu của người Việt là những việc làm mà người sống thực hiện đối với người vừa mất. Cùng tìm hiểu phong tục đám tang của người Việt qua bài viết này nhé.

Bạn đang xem: Phong tục tang ma của người việt

1. Những nghi thức trong đám tang của người Việt

Dưới đây là những nghi thức quan trọng không thể thiếu trong đám tang người Việt.

*

1.1 Ma chay

Khi biết người thân sắp mất thì người còn sống cần làm việc đầu tiên trong phong tục tang ma của người Việt là lo thủ tục ma chay. Việc đầu tiên là hỏi xem người sắp mất có gì trăn trối hoặc để lại lời nhắn gì không và hỏi người đó có tự đặt tên thụy tên sau này để khấn khi cúng cơm là gì.

Tiếp theo, lấy nước ngũ vị hương lau sạch sẽ cơ thể và thay quần áo tươm tất. Khi người đó tắt thở lấy chiếc để ngang hàm cho răng khỏi nghiến vào nhau và cho một nắm gạo, 3 đồng tiền vào miệng gọi là ngậm hàm.

1.2 Trùng tang

Trong đám tang người Việt cần ghi nhớ ngày giờ người chết tắt thở đế xem có vào vào giờ trùng tang hay bị quý ám không. Nếu vào ngày giờ xấu phải dùng lá bùa để dán trên trên quan tài và cho vào vỏ ốc để chốn 4 phía của ngôi mộ hoặc khi đem chôn thì có hai hay nhiều phương tướng đi trước đám tang, mặc đồ như tướng quân, múa đao để trừ tà ma dọc đường…

1.3 Hạ tịch

Hạ tịch là nghi thức tiến hành đưa người vừa mất xuống chiếu trải dưới đất trong một chốc rồi lại đưa lên luôn với ngụ ý là người được đất sinh ra sẽ trở về với đất và hy vọng sẽ hoàn sinh khí cho người đã mất.

1.4 Cáo phó

Trong phong tục tang ma của người Việt không thể thiếu nghi thức cáo phó là tờ thông báo tang lễ được đặt trước cổng tang gia hoặc đầu đường vào nhà hay gửi đến từng nhà người thân thích với mục đích thông báo. Trên tờ cáo phó ghi rõ thông tin người chết, ngày sinh và ngày mất, chi tiết về tang lễ như thời gian, địa điểm làm lễ nhập quan và di quan…

1.5 Khâm liệm và nhập quan

Tiến hành khâm liệm dùng vải trắng quấn người chết được may làm đại liệm, tiểu liệm. Sau đó nhập quan được làm sau khi liệm xong, người thân đứng xung quanh quan tài, nâng người chết bằng bốn góc của tấm vải tạ quan rồi đặt vào quan tài.

Trên quan tài đặt 1 chén cơm bên trên có cắm 1 đôi đũa và 1 quả trứng gà luộc, lưu ý đặt quan tài phải quay đầu ra ngoài.

1.6 Thiết linh sàng, linh tọa

Linh sàng được lập ở phía đông được gọi là giường của linh hồn và có quây màn, để gối như lúc còn sống. Còn linh tọa trong đám tang người Việt chính là đặt bàn thờ phía trước linh cữu và giữa linh tọa đặt bài vị ghi rõ họ tên đặt vào ảnh của người chết, hai bên ảnh có đèn nến phía trước đặt bát nhang, mâm ngũ quả và rượu.

1.7 Phúng điếu

Trong phong tục tang ma của người Việt không thể thiếu phúng điếu. Phúng điếu là hình thức thăm hỏi gia đình người vừa mất giúp đỡ bằng tiền bạc, hoa quả, nhang đèn... Theo tục lệ, khi người nhà mặc tang phục thì không được tiếp khách đến phúng viếng.

Khách đến phúng viếng cần vái lạy người chết và tang gia lạy trả một nửa số vái. Hiện nay, trong tang lễ một số gia đình không nhận tiền phúng điếu và có ghi rõ trên tờ cáo phó.

1.8 Thổi kèn giải

Trong những ngày tổ chức tang lễ gia chủ thường mời ban nhạc đến thổi kèn trống, đánh đàn gọi là nhạc hiếu để tưởng nhớ người đã mất.

1.9 Di quan

Di quan là di chuyển quan tài từ nơi khâm liệm đến một nơi khác để chờ chôn hoặc từ nơi khâm liệm đến nơi chôn cất.

1.10 Chôn cất

Sau khi chôn cất được 3 ngày gia chủ đến làm lễ viếng mộ còn gọi là tục mở cửa mả.

1.11 Tuần chung thất

Phong tục tang ma của người Việt không thể thiếu tuần chung thất gọi tắt là 49 ngày. Trong thời gian sau tang lễ gia chủ cúng cơm đều đặn cho người mất và được bao nhiêu tuần gia chủ cần làm lễ thất bấy nhiêu tuần, cho đến tuần thứ 7 cần làm lễ chung thất và ngừng cúng cơm.

1.12Tuấn tốt khóc

Khi đã mất được 100 ngày, gia chủ làm lễ thôi khóc mời thầy cúng đến đốt nhà, đốt tang phục cho người chết và đưa di ảnh lên bàn thờ tổ tiên.

1.13 Giỗ đầu

Sau khi mất được 1 năm âm lịch, gia đình sẽ tổ chức giỗ đầu để tưởng nhớ đến người đã khuất.

1.14 Mãn tang

Trong nghi thức đám tang thì mãn tang chính là kết thúc, sau khi mất được 3 năm thì gia chủ làm lễ hết tang.

2. Một số lưu ý trong nghi thức khâm liệm

Nghi thức khâm liệm rất quan trọng trong đám tang nên cần chú ý một số điều dưới đây.

*

2.1 Tránh nước mắt rơi vào thi thể trong đám ma

Trong phong tục tang ma của người Việt, lúc khâm niệm không để nước mắt rơi vào thi thể do dễ gặp trường hợp quỷ nhập tràng hoặc con cháu đời sau khó làm ăn. Do đó, dù có đau xót đến đâu cũng không để nước mắt rơi xuống thi thể và lưu ý người khâm niệm tuyệt đối không được khóc.

2.2 Không để chó mèo đến gần thi thể

Khi chưa đặt thi thể vào quan tài thì người thân tuyệt đối không để chó mèo lại gần để tránh trường hợp người chết bật dậy.

2.3 Không dùng gỗ cây liễu để đóng quan tài

Theo phong tục từ xưa thì gỗ liễu không có hạt nên không được sử dụng để đóng quan tài sợ thế hệ sau không có người nối dõi. Gỗ làm quan tài nên dùng cây bách, cây tùng.

Hy vọng với những thông tin bài viết vừa chia sẻ sẽ giúp mọi người hiểu rõ hơn về phong tục tang ma của người Việt để có thể phòng tránh những điều xấu xảy ra. Ngoài ra, gia chủ có thể dùng bình phong lăng mộ bảo vệ khỏi những tàkhí xấu xâm nhập từ ngoài vào khi xây mộ cho người đã khuất.

VPDD:Toà nhà Season Avenue, Làng việt kiều châu âu – Mỗ Lao – Hà Đông – HN.

Tang lễ là những lễ nghi được đặt ra để bày tỏ lòng thương xót và kính thờ người chết. Và người Việt Nam coi tang lễ cha mẹ là quan trọng nhất.

Thủ tục tang ma của người Việt

Khi cha mẹ hấp hối thì phải khiêng ra giữa nhà để tỏ rằng cha mẹ chết một cách quang minh chính đáng. Lúc này phải đặt tên hiệu, tên thụy, còn gọi là tên cúng cơm, rồi thưa cho cha mẹ biết để sau này mỗi khi cúng giỗ, nghe con cháu khấn tên thì cha mẹ về dự lễ. Lại lấy một miếng lụa trắng dài đặt lên mặt, có người nói đặt lên ngực để hồn người sắp chết nhập vào, rồi kết thành hình người, gọi là hồn bạch.

Khi tắt thở rồi thì tang chủ (người chủ lễ, thường là con trai trưởng) lấy một chiếc đũa để ngang hàm, dùng một miếng khăn hoặc một miếng giấy phủ lên mặt để tránh ma quỷ ám hại. Xong, khiêng xác đặt xuống đất, rồi lại khiêng lên giường, mong rằng người chết hấp thụ sinh khí của đất, may ra sống lại. Tục này mang ý nghĩa là người ta bởi đất sinh ra thì khi chết lại về đất.

Người con cầm cái áo của người chết mới thay, đi đường phía trước trèo lên mái nhà hú vía ba lần (lễ phục hồn, chiêu hồn): ba hồn, bảy vía, cha đâu về với con hoặc ba hồn, chín vía mẹ đâu về với con, tỏ ý mong cha mẹ sống lại. Theo quan niệm của Đạo giáo thì phách (hay vía) là phần tinh thần của người phải phụ vào xác mới tồn tại, khi người chết thì tan đi, còn hồn là phần tinh thần không có xác vẫn tồn tại được. Hú vía xong tụt xuống bằng lối phía sau. Mang áo vừa được hú vía phủ lên xác.

Dùng nước thơm tắm rửa cho người chết (lễ mộc dục ), chải tóc, cắt móng tay móng chân, thay quần áo mới. Con trai tắm rửa cho cha, con gái tắm rửa cho mẹ. Người chết được mặc quần áo sang trọng hay đơn sơ tùy theo nhà giàu hay nghèo, có chức tước hay không, chết già hay chết trẻ.

Các đồ dùng và nước tắm của lễ mộc dục được đem chôn.

Sau đó làm lễ phạn hàm, hay ngậm hàm. Bỏ một nắm gạo và ba đồng tiền (đồng kẽm, đồng chinh) vào miệng người chết. Gạo để linh hồn người chết ăn, khỏi phải thành ma đói ( ngạ quỷ). Tiền dùng để đi đò hay qua cầu sang bên kia thế giới. Những người lúc sống ăn ở bạc ác thì lúc chết linh hồn phải qua cầu Nại Hà. Người lương thiện được qua cầu Kim Ngân. Ngày xưa nhà giàu dùng gạo và vàng, ngọc để làm lễ phạn hàm.

Từ lúc mặc quần áo đẹp cho người chết xong, con cháu không mặc đồ tốt đẹp, chải chuốt. Ngược lại, càng ăn mặc tiều tụy càng tỏ lòng hiếu thảo.

Tiếp đến là lễ khâm liệm. Khâm liệm là dùng vải bọc xác trước khi đặt vào áo quan. Xác được chèn đồ bổ khuyết, bọc kín và buộc chặt thành một khối vuông vức.

*
*
Đám tang của người Việt

Lúc đặt xác vào áo quan (lễ nhập quan ), lót giấy bản, rắc bỏng hay trà khô để đề phòng hút nước do xác tiết ra. Nhiều nhà mời thầy phù thủy làm lễ phạt mộc (chém gỗ). Một tay cầm dao, tay kia cầm bó hương, thầy phù thủy vừa niệm thần chú, vừa quát tháo, vừa chém vào thành áo quan để trừ ma quỷ còn ẩn nấp trong áo quan và trong những tấm ván.

Phạt mộc xong, thầy phù thủy bỏ vào trong áo quan một miếng ván đục hình chòm sao bắc đẩu, gọi là ván thất tinh (bảy ngôi sao). Gia đình nghèo thì chỉ vẽ chòm sao lên một mảnh giấy.

Ván thất tinh có công dụng gì ?

Theo quan niệm của Đạo giáo thì trên cõi trời có Ngọc Hoàng Thượng Đế và nhiều vị thần ngự trị. Trong số các vị thần được người đời thờ kính có Nam Tào và Bắc Đẩu, hai vị thần chuyên ghi chép và kiểm soát sổ sinh, sổ tử của loài người.

Chòm sao bắc đẩu (đại hùng tinh) tượng trưng cho thần Bắc Đẩu. Bỏ tấm ván thất tinh vào trong quan tài, người ta hi vọng rằng linh hồn người chết sẽ được vị thần giữ sổ tử che chở.

Người nào chết nhằm giờ xấu thì phải bỏ thêm vào áo quan một cỗ bài tổ tôm, ngày nay có chỗ dùng bộ bài tây, một quyển lịch tàu hoặc lịch ta.

Tục này mang ý nghĩa gì ?

Chữ bài (hán việt, bộ thủ), nghĩa là trừ bỏ, và chữ lịch (bộ chỉ) nghĩa là trải qua, vượt qua.

Chết nhằm giờ xấu, người ta dùng bộ bài, quyển lịch để trừ bỏ điều xấu, vượt qua được mọi khó khăn.

Nhiều nhà còn dán thêm bùa bên trong và bên ngoài áo quan để trừ khử ma quỷ. Có nhà dùng tàu lá gồi thay cho quyển lịch. Lá gồi trừ được thần trùng.

Nhập quan rồi, chèn thêm đồ bổ khuyết, đậy nắp áo quan, gắn sơn, đóng cá hoặc đóng đinh cho kín.

Linh cữu được khiêng ra đặt giữa nhà, trên nóc bày một bát cơm úp, cắm một chiếc đũa vót cho sơ ra như gai nhọn (có nơi gọi là chiếc đũa bông), một quả trứng luộc, ba nén hương.

Bát cơm, quả trứng, có thể là bữa ăn để linh hồn người chết khỏi trở thành ma đói. Nhưng chiếc đũa có gai nhọn thì chắc chắn không phải là để dùng ăn cơm. Không ai có thể ăn với một chiếc đũa như thế.

Xem thêm: Lê Na Cung Bọ Cạp - “Cô Giáo Cung Bọ Cạp” Và Câu Chuyện Rất Dài

Vậy chiếc đũa gai này mang ý nghĩa gì ?

Chiếc đũa chữ hán việt là khoái (bộ trúc). Chữ khoái (bộ tâm) có nhiều nghĩa : sướng thích, nhanh chóng, sắc bén, và lính đi bắt giặc cướp.

Cái gai nhọn chữ Hán Việt là thứ (bộ đao), thứ còn có nghĩa là đâm chết.

Chiếc đũa gai tượng trưng cho một tên lính đi bắt và đâm chết giặc cướp, được người xưa dùng làm bùa trừ ma quỷ.

Nếu trong gia đình còn người ở bậc cao hơn người chết thì đặt linh cữu ở gian bên cạnh, đầu quay ra ngoài sân hoặc quay về hướng nam.

Sau vài ba ngày, chờ con cháu ở xa về đông đủ, thì làm lễ thành phục, cũng gọi là phát tang. Gặp mùa nóng bức hoặc lúc có bệnh dịch thì phát tang sớm hơn. Con cháu, họ hàng, tùy theo thứ bậc mà mặc đồ tang. Đồ tang của người vắng mặt được đặt trên linh cữu.

Luật xưa quy định rõ ràng năm hạng quần áo, mũ khăn, cùng thời hạn để tang.

Làm lễ nhập quan rồi nhưng chưa phát tang thì con cháu còn được phép cưới, gọi là cưới chạy tang.

Nhà nào rộng rãi, giàu sang thì đặt linh sàng (giường của linh hồn người chết) và linh tọa (bàn thờ linh hồn).

Buổi sáng bưng chậu nước, khăn mặt vào linh sàng, khóc ba tiếng rồi rước hồn bạch ra linh tọa, lúc đó mới dâng cúng cơm nước. Buổi tối dâng cúng xong, lại rước hồn bạch vào linh sàng, buông màn đắp chăn rồi mới trở ra. Nhà nghèo thì treo hồn bạch vào linh tọa, rồi làm lễ dâng cúng. Lễ này gọi là lễ chiêu tịch điện.

Trong mấy ngày linh cữu còn quàn trong nhà, nhiều gia đình mời phường bát âm thổi kèn, đánh trống đệm cho con cháu khóc, và mỗi khi có người tới phúng viếng. Nhà giàu lại còn thuê người khóc mướn cho tăng vẻ thương nhớ, sầu thảm.

Trước hôm đưa ma thì làm lễ thiên cữu (xê dịch linh cữu). Rước linh cữu sang nhà thờ tổ làm lễ yết tổ rồi đưa trở về chỗ cũ. Có nhà rước hồn bạch đi làm lễ. Không có nhà thờ tổ thì xoay linh cữu một vòng rồi lại đặt vào chỗ cũ.

Đến ngày phát dẫn (đưa đám), làm lễ khiển diện (tiễn biệt), rồi rước linh cữu lên đại dư (xe đòn). Có nhà làm lễ cáo thần đạo lộ, xin phép cho đám tang bắt đầu lên đường.Bắt đầu cuộc phát dẫn.

Tuỳ theo đám ma to hay nhỏ, cách sắp đặt cũng như thứ tự tuần hành có đôi phần khác nhau.

*
*
Đưa đám ma

Đi mở đường là hai phương tướng mặc quần áo đạo sĩ, đeo mặt nạ dữ tợn, cầm gươm xua đuổi ma quỷ. Có khi phương tướng được làm bằng giấy hoặc vẽ vào tấm mộc, cho trẻ con vác.Tiếp theo là thể kì, một bức hoành trắng do hai người khiêng, viết bốn chữ theo vài công thức có sẵn để đọc lên người lạ cũng có thể biết người chết là đàn ông hay đàn bà. Thí dụ cha chết thì viết câu Hỗ sơn vân ám (núi Hỗ mây che, theo điển tích xưa thì núi Hỗ là nơi tưởng nhớ cha). Mẹ chết thì viết câu Dĩ lĩnh vân mê (núi Dĩ mây mờ, núi Dĩ là nơi ngóng mẹ).

Sau thể kì đến minh tinh làm bằng một tấm lụa hay vóc màu đỏ dùng để ghi chức tước, họ tên, thụy hiệu người chết. Đây là chỗ để các gia đình danh giá đua nhau dài dòng minh tinh, đem hết phẩm hàm ra khoe. Nhà nghèo thì dùng giấy điều buộc lên cành tre cho một đứa bé cầm.

Kế tiếp là hương án bày đồ thờ và thực án bày đồ ăn.

Rồi đến linh xa chở hồn bạch, có phường bát âm đi kèm bên. Một người cầm biển đan triệu bằng giấy viết hai chữ trung tín hay trinh thuận tuỳ theo người chết là đàn ông hay đàn bà.

Tiếp theo là cờ công bố dẫn đường cho phu khiêng đại dư.

Nhà giàu thường che linh cữu bằng cái nhà táng trang hoàng lộng lẫy, hoặc một chiếc thuyền bát nhã bằng giấy nếu người chết là một Phật tử. Có nhà thắp thêm bảy cây nến xếp thành hình chòm sao bắc đẩu trên nắp linh cữu.

Tục ta mong muốn cho người chết được yên nghỉ, cho nên phu khiêng linh cữu, đại dư phải chú ý đi đứng nhẹ nhàng, ngay ngắn. Nhiều nhà cho đặt một chén nước đầy trên linh cữu, nếu trong suốt lúc di chuyển, khiêng vác, nước không sánh ra ngoài thì phu khiêng sẽ được thưởng tiền.Cha đưa mẹ đón. Đám tang cha, con trai chống gậy tre theo sau quan tài. Đám tang mẹ, con trai chống gậy vông (ngày xưa gọi là cây đồng) nửa dưới đẽo vuông, nửa trên vót tròn, đi giật lùi đằng trước quan tài. Con trai nào vắng mặt thì treo cái gậy của người ấy ở đầu đòn đại dư. Nếu có con trai nào chết trước thì con trai của người này (hoặc người được ăn lập tự) phải chống gậy thay cha.

Tại sao lại chống gậy vuông đi giật lùi ?

Nhất Thanh giải thích rằng vì cha nghiêm (nghiêm đường, nghiêm phụ) con chỉ biết lẽo đẽo theo khóc, không dám lên phía trước đón ngăn lại trên đường vĩnh biệt như đối với mẹ hiền (gia từ, từ mẫu).

*
*
Người con trai trưởng chống gậy đi lùi

Giải thích của Nhất Thanh e rằng dễ gây cho ta cảm tưởng rằng con chỉ sợ cha vì cha nghiêm, còn mẹ hiền thì con có thể nhờn. Vả lại Nhất Thanh vẫn chưa cho biết ý nghĩa của cái gậy vuông. Muốn hiểu được tục này chúng ta phải nhìn lại xã hội phong kiến ngày xưa.

Ai cũng biết rằng Nho giáo rất trọng tôn ti trật tự quân, sư, phụ (vua, thầy dạy học, cha). Trong gia đình người cha là trên hết. Cha chết, tất cả con cái thuộc bậc dưới phải đi sau quan tài của cha. Còn vai trò của người mẹ thì ra sao ?

Nho giáo trọng đàn ông con trai, miệt thị đàn bà con gái. Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô (một con trai kể là có, mười con gái kể là không). Cha chết thì quyền huynh thế phụ người anh được thay quyền cha. Chồng chết thì vợ phải phu tử tòng tử, nghĩa là mẹ phải theo con trai. Tuy nhiên, chữ hiếu của Nho giáo lại bắt con trai cũng như con gái phải thờ kính cả cha lẫn mẹ.

Tục lệ tang ma cho người con trai đi giật lùi đằng trước quan tài của mẹ, như vậy là vừa giữ được lòng kính trọng của chữ hiếu vừa giữ được tinh thần trọng nam khinh nữ của Nho giáo.

Hai chiếc gậy tre và gậy vông mang ý nghĩa gì ?

Chiếc gậy tre tượng trưng cho ngay thẳng, cứng rắn của cha, gậy vông tượng trưng cho thuần hậu, mềm dẻo của mẹ. Nhưng tại sao lại phải đẽo vuông chiếc gậy vông ?

Người xưa quan niệm rằng trời tròn đất vuông. Quan niệm này được thể hiện rõ ràng qua sự tích bánh giầy bánh chưng của ta. Vua Hùng Vương thứ 18 muốn truyền ngôi, cho gọi các con vào chầu. Vua nói: “Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối năm nay mang trân cam mỹ vị đến để tiến cúng tiên vương cho ta được tròn đạo hiếu thì sẽ được ta truyền ngôi”.

Lang Liêu nhà nghèo, được thần báo mộng: “Các vật trên trời đất và mọi của quý của người không gì bằng gạo. Gạo có thể nuôi người khỏe mạnh mà ăn không bao giờ chán, các vật khác không thể hơn được. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình tròn, cái hình vuông để tượng trưng hình trời đất rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ “. Lang Liêu làm theo lời thần.

Bánh dâng lên vua, được vua khen vừa ngon vừa có ý nghĩa. Lang Liêu được vua truyền ngôi. Từ đó, đến ngày Tết thiên hạ thường làm bánh giầy bánh chưng dâng cúng cha mẹ. Gậy tre tròn tượng trưng cho trời. Theo thuyết Âm Dương của Nho giáo thì trời thuộc về dương, chỉ người cha. Gậy vông vuông tượng trưng cho đất. Đất thuộc về âm, chỉ người mẹ. Vì vậy cho nên đưa đám cha phải chống gậy tròn, đưa đám mẹ thì chống gậy vuông.

Con gái, con dâu luôn luôn đi đằng sau linh cữu cha mẹ, dưới tấm phương du bằng vải trắng dùng để che nắng. Khi nào được hiệu lệnh thì con gái trưởng và con dâu trưởng phải vừa khóc vừa lăn đường cho tăng thêm phần thảm thiết.

Các gia đình theo đạo Phật thường mời nhà sư, bà vãi đến tụng kinh, cầu nguyện cho linh hồn người chết được siêu sinh tịnh độ. Lúc đưa đám, các bà vãi đội cầu bát nhã, nhà sư gõ mõ tụng kinh, đi đằng trước linh cữu để dẫn đường linh hồn sang Tây phương cực lạc.

Dọc đường đám tang có người rắc vàng mã . Người ta tin rằng có nhiều ma quỷ theo đuổi ám hại linh hồn người chết. Phải rắc vàng mã để tống tiễn chúng mới buông tha.

Tại huyệt chôn, nhiều nhà làm lễ tế thổ thần nơi đây.

Nhà có chức tước danh vọng còn làm lễ đề chữ , nghĩa là viết nốt chữ chủ còn bỏ dở. Bộ thần chủ được sửa soạn từ trước nhưng người ta chỉ viết chữ thần và ba nét ngang của chữ chủ, cố ý để thiếu nét chấm và nét sổ. Hiếu chủ mời một vị khoa bảng, có chức tước đứng ra làm lễ, cầm bút chấm và sổ cho thành chữ chủ. Thần chủ viết xong được đặt lên linh xa, rước về thờ tại nhà.Đợi đúng giờ tốt thì hạ huyệt. Huyệt được thầy địa lí tìm phương nhắm hướng trước, lúc này chỉ xê xích linh cữu, đặt cho thật đúng.

Lấp mộ xong thì đốt nhà táng, minh tinh, cầu bát nhã, thuyền bát nhã và phương tướng.

Nếu người chết là Phật tử thì có nhà sư tụng kinh gõ mõ và các bà vãi cầm hương niệm Phật đi quanh mộ. Mỗi người cầm một hòn đất ném vào mộ, gọi là đi dong nhan.

Dong nhan nghĩa là gì ?

Các học giả không thống nhất ý kiến. Có người hiểu là tưởng nhớ đến nét mặt người chết, người khác lại hiểu là lấp mặt người chết một lần cuối.Những ngày tiếp theo, con cháu đem trầu rượu ra thăm mộ, gọi là ấp mộ, ngụ ý làm cho người nằm dưới mộ bớt lạnh lẽo. Đến ngày thứ ba làm lễ mở cửa mả. Con cháu đắp lại ngôi mộ, mời thầy phù thủy yểm bùa trừ ma quỷ.

Những gia đình theo Phật giáo, sau đám tang cứ bảy ngày lại làm một tuần chay, tụng kinh tại nhà hay tại chùa. Đến tuần chay thứ bảy, cũng gọi là cúng 49 ngày, thì ngừng. Được 100 ngày làm tuần bách nhật, còn gọi là tuần tốt khốc nghĩa là từ nay trở đi thôi không khóc nữa. Mỗi năm đến ngày mất, con cháu cúng giỗ để tưởng nhớ. Giỗ đầu gọi là tiểu tường. Năm sau làm lễ đại tường. Sau 27 tháng thì làm lễ trừ phục, hết hạn để tang. Trong thời hạn tiểu tường và đại tường, đến rằm tháng bảy tuần trung nguyên người ta hay đốt vàng mã cho người chết dùng, có khi đốt cả hình nhân, thằng Quýt con Nhài, cho xuống âm phủ hầu hạ người chết.

Khi có người chết oan, bị giết, chết bất đắc kì tử, hoặc chết nhằm giờ xấu thì phải làm chay để siêu độ vong hồn. Đàn chay thường được tổ chức ngay tại chỗ người bị chết.

Lễ làm chay dung hợp cả Phật giáo và Đạo giáo. Trên đàn tế bày tượng tam bảo, tượng tam phủ, hai bên có tranh thập điện, ở giữa có tranh quan thánh. Buổi lễ do nhà sư hay pháp sư làm chủ lễ. Mục đích của lễ là gọi hồn người chết về, cầu Phật để xin phổ độ, cầu tam phủ để xin xá tội.

Nhiều làng quê miền Bắc có tục cải táng (bốc mộ), nghĩa là chôn sang khu đất mới. Lí do là vì sau vài ba năm mộ cũ bị sụt lở, ngập nước, hoặc vì chôn ở nơi xa con cháu muốn đưa về quê nhà, cũng có khi chỉ vì tin thầy địa lí, phù thủy.

*
*
Tải tang, bốc mộ

Con cháu làm lễ cáo từ đường rồi khai mộ, mở nắp quan tài. Tất cả xương cốt được nhặt ra, tẩy rửa bằng nước thơm, lau khô, xếp vào một cái tiểu sành, rồi chôn sang đất khác. Trước khi chôn làm lễ cúng thổ thần mới.

Người Việt Nam quan niệm rằng sống gửi thác về (sinh kí tử quy). Chết là trở về với tổ tiên bên kia thế giới. Ai cũng mong muốn cho cha mẹ trở về được thanh thoát, may mắn. Người con có hiếu phải thờ cha mẹ đã chết cũng như lúc cha mẹ còn sống, thờ khi mất như lúc hãy còn (sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn). Nhưng vì câu nệ vào tục Tàu nên các nghi thức trở thành rườm rà, tốn kém, trọng hình thức giả tạo.

Ngày nay đám tang được tổ chức gọn gàng. Hồn bạch, thể kì, minh tinh được thay bằng tấm ảnh chân dung người chết. Linh cữu được chở bằng xe hơi. Nhiều nghi thức, hủ tục bị xoá bỏ (thương vay khóc mướn, lăn đường, cờ quạt rầm rộ, kèn trống ầm ỹ). Tục đốt vàng mã vẫn còn, thậm chí còn gia tăng ở một vài nơi. Đua nhau vén tay áo sô đốt nhà táng giấy, đốt xe hơi, tủ lạnh, giấy tiền đô la…

Thời hạn để tang được rút ngắn. Mồ mả xây đắp cẩn thận, không cần phải cải táng. Nhiều gia đình cho thiêu xác, giữ tro để thờ tại chùa.